Thuỷ Quan Đại Đế

Thuỷ Quan Đại Đế

Thuỷ Quan Đại Đế hay đầy đủ hơn là Hạ Nguyên Ngũ Khí Thủy Quan Kim Linh Đỗng Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân, Pháp Lưu Viễn Hiệp Thiên Tôn là Thuỷ Giới Chí Tôn, tổng quản cửu giang thủy đế, thập nhị hà khê, tam hà tứ hải thủy phủ, hà nguyên động đình, cho đến các  giống thủy tộc ngư long giao, bách tinh thủy thú lân loại, nhất thiết thiện tín nam tử nữ nhân sinh tử lục tịch, niên nguyệt phân hạn mà kết kì báo ứng.

Thiên quan đại đế, được thờ ở giữa gian thờ, là Thượng Nguyên, là vị thần ban phúc lành nên được gọi là Thiên quan tứ phúc (天官賜福).
Địa quan đại đế, được thờ ở bên phải, là Trung Nguyên, là vì thần răn dạy phải trái và xá tội cho kẻ mắc lỗi, được gọi là Địa quan xá tội (地官赦罪).
Thủy quan đại đế, được thờ ở bên trái, là vị thần giúp người giải trừ tai ương, nên được gọi là Thủy quan giải ách (水官解厄).


“Đại Đường lục điển” chép: “Tam Nguyên trai, chính nguyệt thập ngũ nhật Thiên Quan vi Thượng Nguyên, thất nguyệt thập ngũ nhật Địa Quan vi Trung Nguyên, thập nguyệt thập ngũ nhật Thuỷ Quan vi Hạ Nguyên, giai pháp thân tự sám trừng tội yên”. Thiên Quan Tử Vi Đế Quân chức quyền có khả năng tứ phúc cho tín chúng, Địa Quan Thanh Hư Đại Đế xá miễn tội nghiệp, Thuỷ Quan Đỗng Âm Đại Đế giải nhương ách nạn. Vì vậy ta thường nghe câu “Thiên Quan tứ phúc, Địa Quan xá tội, Thuỷ Quan giải ách”.
“Trung Hoa phong tục chí” cũng nói: “Thập nguyệt vọng vi Hạ Nguyên tiết, tục truyền Thuỷ Quan giải ách chi thần, diệc hữu trì trai tụng kinh giả.” Ngày Vọng tháng Mười là Hạ Nguyên Tiết, tục truyền là dịp Thuỷ Quan giải ách, nên trì trai giới, tụng kinh sám hối vậy!
Tháng Mười Nông lịch, thuộc quẻ Bát Thuần Khôn, vạn vật đến kỳ hư rỗng, tăm tối. Thuỷ Quan Đại Đế dùng Chân thủy mà tẩy đãng uế nhơ, quét sạch bụi cáu hầu lộ rõ chân tính trần ai. Tháng Mười gặp vận Thuỷ sinh hoá, nên lấy ngày vọng tháng đầu đông làm ngày Thánh đản hầu giải nhương ách nạn chúng sinh. 
Trong Tam Quan Kinh đề cập Thuỷ Quan Đại Đế giải nhị thập ngũ (25) ách. Từ ôn bệnh tương xâm, lị tật sang độc, cho đến Khí hậu hầu hoàng, yết hầu phong độc cùng vô vàn ách nạn trong đời sống sinh giới. Trong Bắc Đẩu Kinh, Đại Thánh Bắc Đẩu Thất Nguyên Quân có thể giải nhương “nhị thập tứ ách”, bao la vạn thù, ta thử suy tư, tại sao Thủy Quan phải giải thêm “Nhị thập ngũ ách”, há chăng lại trùng lặp nhau hay sao? Quả không phải thế! Việc giải nhương ách nạn qua từng kinh điển được đặt để trong những bối cảnh khác nhau và hoàn toàn cá biệt. Việc giải 24 ách nạn hay 25 ách nạn không phải để so sánh nhiều ít, mà để ta hiểu một chân lý sống động rằng: chúng sinh là loài đói khát ân sủng Đại Đạo và việc nguyện xin giải nhương tai ách ở Bắc Đẩu Kinh, Ngọc Xu Kinh hay Tam Quan Kinh đều là cách kéo gần Hồng ân Đại Đạo xuống phàm thế. Như ta hằng tin nhận: sự lôi kéo Hồng ân nơi Thiên Tôn đến với ta chưa bao giờ là đủ và hiển nhiên, các Ngài cũng xông xênh mà giao ước với chúng ta qua kinh văn vậy! 
Chúng sinh sống trong đời như đang đi trên một chiếc thuyền giữa ba đào sóng vỗ. Biển kia chẳng phải là hà hải vô tri, đích thị do Tham-Sân-Si-Ái kết thành khổ hải. Nơi ấy, chúng sinh ngụp lặn giữa phong ba, kinh sợ không điểm nương tựa. Kẻ nào quy y Đại Đạo, kê thủ Thiên-Địa-Thuỷ quan, kiền thành liên lỉ, có thể khấn nguyện Tam Quan Đại Đế trở thành Đấng gia cố cho chiếc thuyền đời mình. Từ đó, chúng sinh thêm mạnh bước vượt qua gian truân, khổ não trên hành trình phục mệnh quy nguyên.
Trong tháng này, đạo chúng thường niệm Tam Quan Bảo Cáo, có thể cầu phúc giải nhương ách nạn, xin được Tam Nguyên Thiên Tôn gia cố đời mình, nâng đỡ bản thân trên bước đường khốn khó:
Chí tâm quy mệnh lễ: Duy tam thánh nhân, Nãi nhất thái cực; Phổ thụ hạo kiếp gia chi mệnh; Đỉnh ưng vô lượng phẩm chi bao; Tử Vi Thanh Hư Đỗng Âm,Tổng lãnh công quá; Tứ phúc xá tội giải ách, Phổ tế tồn vong; Đạo quan chư thiên, ân đàm tam giới; Đại bi đại nguyện, Đại thánh đại từ; Tam Nguyên Tam Phẩm, Tam Quan Đại Đế; Tam cung cửu phủ, Ứng Cảm Thiên Tôn.
"Nhất chú chân hương lô nội phần; 
Tam Nguyên Tam Phẩm tẫn dao văn; 
Thử hương nguyện đạt Tứ Phúc phủ; 
Tấu thỉnh Xá Tội Giải Ách Tôn".