Tế tự là gì ?

Thứ năm, 23/02/2023, 09:39 GMT+7

 Tế tự là một bộ phận của lễ điển Hoa Hạ, là bộ phận chủ yếu trong lễ nghi của Nho giáo, lễ có ngũ kinh, không có gì quan trọng bằng tế để thờ thần cầu phúc.
          Khi nhân loại cho rằng muôn vật đều có linh hồn, linh hồn của con người có thể nương vào vạn vật tự nhiên, thì hoạt động tế tự nguyên thuỷ đã bắt đầu. Người Sơn Đính Động 山顶洞 vãn kì thời đại đồ đá cũ họ đã biết bôi lên thi thể phấn đỏ khoáng thạch tượng trưng cho huyết dịch, cho rằng làm như vậy có thể khiến người chết sống lại.
          Từ khát vọng giản đơn nhất đối với sinh mệnh đến sự phát triển sau này đối với việc cầu khấn thần linh, cầu khấn được bảo vệ giúp đỡ, thế là đối tượng tế tự không ngừng gia tăng thêm, ngay cả Tiêu Hà 萧何, Hàn Dũ 韩愈, Nhạc Phi 岳飞 cũng đều đảm nhiệm vai trò Thổ địa gia 土地爷. Thời Tam Quốc, lại sản sinh Thành Hoàng 城隍 bảo vệ thành thị, sau đó dần khuếch đại phổ cập, trở thành Thần thương nghiệp, công nghiệp. Thành Hoàng chủ âm, nắm giữ sổ sách cõi âm, quan sát thiện ác, ghét cái ác như kẻ thù, tra quỷ gọi hồn. Thế là trên đất và dưới đất đều có thần cai quản.
          Đối tượng của tế tự nhiều, khí vật để tế tự tất nhiên cũng nhiều. Cầu khấn thần khác nhau phải dùng những khí vật khác nhau. Chúng ta hiện nay chỉ biết một số khí vật tế tự của triều Hán tương đối thường thấy.

Thần tiên cũng cần phải ăn, tế tự dùng trâu dê heo.
          Lời tục có câu “Dân dĩ thực vi thiên” 民以食为天, trong mắt lão bách tính thực vật 食物 là quan trọng nhất, cho nên họ cho rằng cầu thần tiên phù hộ phải đem những thứ ngon nhất của mình dâng lên. Thế là tế tự lúc ban đầu lấy việc dâng thức ăn làm phương thức chủ yếu. Trong Lễ kí – Lễ vận 礼记 - 礼运 có nói:
          Phù lễ chi sơ, thuỷ chư ẩm thực. Kì phần tất bách đồn, oa tôn nhi bầu ẩm, khoái phù nhi thổ cổ, do nhược khả dĩ trí kì kính vu quỷ thần.
          夫礼之初, 始诸饮食. 其燔悉捭豚, 污尊而抔饮, 蕢桴而土鼓, 犹若可以致其敬于鬼神.
          (Phàm ban đầu của lễ, là bắt đầu từ hoạt động ẩm thực. Thời nguyên thuỷ, người ta đem lúa tắc đặt trên đá tảng, dùng lửa đốt chín, đem heo con nướng trên lửa, đào hố nhỏ dưới đất đựng nước xem như chén, dùng hai tay vốc nước dâng lên, vò đất sét nặn thành dùi trống, lấy khuôn đất sét bịt da làm trống, tuy đơn giản thô lậu nhưng hết sức kính cẩn đối với quỷ thần)
          Ý nói lế tế tự khởi nguồn từ việc dâng hiến thức ăn lên quỷ thần, chỉ cần thiêu đốt (dùng lửa thiêu) lúa tắc đồng thời dùng thịt heo dâng lên thần, đào đất lấy lỗ làm bình, dùng tay vốc nước dâng lên quỷ thần, gõ trống đất làm nhạc, thì có thể đem lời nguyện cầu cùng thành ý truyền đạt đến quỷ thần.
          Tại sao nhất định phải dùng thịt? Thần tiên không thích ăn chay sao? Chúng ta cảm thấy thần tiên thích hay không thích ăn chay chẳng có liên quan gì. Mà lại là có liên quan đến nhân loại chúng ta. Bạn thử nghĩ xem, đương thời muốn ăn thịt không như chúng ta xách giỏ ra chợ mua về, thời kì đó muốn ăn thịt phải tự mình đi săn bắt, lưới vây, tường chắn đủ các loại, lao động trí óc lao động chân tay dường như tập trung trên người. Như vậy thịt mà có được đương nhiên là rất quý. Ngay cả cuộc sống lí tưởng mà Mạnh Tử 孟子nghĩ đến là người già 70 tuổi trở lên được có thịt để ăn là tiêu chuẩn quan trọng. Cho nên thịt trở thành tế phẩm chủ yếu  để dâng lên thần linh.
          Được thôi! Thế thì lấy thỏ rừng săn được dâng tế. Dừng lại! Tế tự là đại sự, sao có thể tuỳ tiện lấy miếng thịt cho xong việc. Thời cổ động vật lấy thịt dùng trong tế tự đều gọi một cái tên nghe sáng láng “hi sinh” 牺牲, chỉ các sinh súc mã 马 (ngựa), ngưu 牛 (trâu), dương 羊 (dê), kê 鸡 (gà), khuyển 犬 (chó), thỉ 豕 (heo), ngày nay chúng ta gọi đó là “lục súc” 六畜. Trong lục súc thường dùng nhất là tam sinh trâu, dê, heo. Cá và thỏ rừng cũng dùng trong tế tự, nhưng không thuộc nhóm “hi sinh”. Đương nhiên cũng có loại tế phẩm tàn nhẫn mang khẩu vị nặng đó là nhân 人 (người). Tế tự cũng dùng “nhân” nhưng bản thân “nhân” không gọi là “hi sinh”, trong sách cổ có nói “dụng nhân” 用人, mà không nói “nhân sinh” 人牲.
          Đến triều Hán, thịt dùng trong tế tự vẫn tồn tại, nhưng yêu cầu càng nhiểu hơn. Tế tự cũng phân làm tôn ti. Tế khí của thiên tử gọi là “cửu đỉnh bát quỹ” 九鼎八簋 – ngưu 牛, dương 羊, thỉ 豕, ngư 鱼, lạp 腊, trường vị 肠胃, phu 肤, tiên ngư 鲜鱼, tiên lạp 鲜腊 đựng trong cửu đỉnh được gọi là “Đại lao” 大牢, còn tế khí của quần thần chỉ có “thất đỉnh lục quỹ” 七鼎六簋, tiếp đó theo thứ tự xuống dần mà giảm bớt.

Ngọc không chỉ dùng làm vật trang sức trên đầu
          Nói đến việc dùng ngọc làm dụng phẩm tế tự. trước tiên nhấn mạnh một chút, không phải tất cả các loại ngọc có được đều có thể dùng trong tế tự, chỉ có những chế phẩm ngọc như bích 璧, tông 琮, khuê 圭, chương 璋, hoàng 璜, hổ 琥 được gọi là “lục khí” 六器 mới có thể dùng trong tế tự. Trong mắt người xưa, ngọc là tín vật câu thông giữa người với thần. Quan điểm này kì thực đã lưu truyền lại, chẳng phải chúng ta ngày nay không đều nói  ngọc có linh tính sao? Thậm chí về linh tính của ngọc, còn có truyền thuyết: Một thái tử long vương nào đó yêu một cô gái chốn nhân gian, yêu đến mức tình thâm ý thiết, chết đi sống lại. Nhưng thái tử long vương biết rất rõ đạo lí nhân và thần không thể  sống chung, nếu không sẽ hại người hại mình. Thế là chỉ có thể bỏ đi tình cảm đó, nhưng trong lòng trước sau vẫn bỏ không được cô gái. Thái tử long vương cũng si tình, biến mình thành một chiếc vòng ngọc xanh biếc đeo trên tay cô gái, hi vọng có thể bảo vệ cô gái một đời bình an.
          Chúng ta tiếp tục nói về “lục khí”, Trước tiên nói về “bích” 璧rất đặc thù. Chúng ta đều không xa lạ câu chuyện “Hoàn bích quy Triệu” 完璧归赵, nhưng trừ bản thân câu chuyện ra, còn cần phải biết “bích” không phải là loại ngọc thông thường, ngọc dùng để tế nhật, nguyêt, tinh thần mới được gọi là “bích”. Nhìn chung bích có dạng tròn dẹt, giữa có lỗ. lớn cỡ loại “bình an khấu” 平安扣 (1) hiện nay. 5 loại ngọc khí kia công dụng tương đối rộng, tế tự, tang táng đều có thể dùng được.
          Ngọc là tế vật thường dùng nhất ngoài thực vật (食物), cũng là phương thức quan trọng nhất, trong Chu lễ 周礼 có câu:
Dĩ ngọc tác lục khí, dĩ lễ thiên địa tứ phương.
以玉作六器以礼天地四方
(Lấy ngọc làm lục khí, để tế thiên địa tứ phương)
          Đời Hán, quân tử có câu nói “ngọc bất khứ thân” 玉不去身(ngọc không
rời thân), dùng ngọc làm phù tiết, ấn tín, rất quý trọng. Chế độ lễ nghi của ngọc lúc bấy giờ đã có được sự phát triển mà trước đó chưa từng có! Mọi người xem ngọc là danh từ thay cho “mĩ hảo” 美好, thậm chí trong tưởng tượng nơi mà thiên thần cư trú cũng xưng là “ngọc đài” 玉台. ..... (còn tiếp)

Chú của người dịch
1- Bình an khấu 平安扣: Cũng gọi “La Hán nhãn” 罗汉眼 là miếng ngọc nhỏ tròn và dẹt, có lỗ ở giữa giống đồng tiền cổ, dùng để đeo trước ngực, theo truyền thuyết nó có công năng trừ tà, bảo vệ bản thân ra vào đi đứng đều được bình an. Có lẽ do bề mặt của ngọc láng bóng không chạm trỗ gì, ngoại hình lớn nhỏ cỡ nút áo (khấu tử) nên có tên gọi như thế. Còn tên là “La Hán nhãn” là khởi đầu từ những năm Khang Hi. Đương thời chính trị triều Thanh toàn thịnh, quốc khố phong doanh, thực lực lớn mạnh, cho nên đã phát hành một loại hoá tệ đặc biệt, đó là “La Hán tiền” 罗汉钱. “Bình an khấu” hộ thân lúc bấy giờ rất giống La Hán tiền, dẫn đến việc không phân biệt rõ, cho nên để biểu thị sự khu biệt, mọi người gọi “bình an khấu là “La Hán nhãn”.

Đỉnh – tế tự cần phải có
          Đỉnh 鼎 được xem là trọng khí truyền quốc, tượng trưng cho quyền lực và thân phận của quốc gia. Chữ “đỉnh” 鼎cũng được phú cho ý nghĩa “hiển hách” 显赫, “tôn quý” 尊贵, “thịnh đại” 盛大, như “nhất ngôn cửu đỉnh” 一言九鼎, “đại danh đỉnh đỉnh” 大名鼎鼎, “đỉnh thịnh thời kì” 鼎盛时期, “đỉnh lực tương trợ” 鼎力相助  v.v...
          Đỉnh cũng là một trong những khí vật tế tự trọng yếu nhất trong thanh đồng khí, trong tế tự dùng để nấu thịt và đựng thịt. Thời Tam Đại đến thời Tần Hán kéo dài hơn 2000 năm, đỉnh luôn là lễ khí thần bí nhất và thường thấy nhất. Đa phần đỉnh có bụng tròn, 2 quai, 3 chân, cũng có loại đỉnh vuông 4 chân.
          Tại sao thịt tế nhất định phải dùng đỉnh? Dùng chén không được sao? Bạn chớ vội, hãy nghe giải thích.
          Đỉnh vốn là một khí vật dùng để nấu ở thời cổ, tương đương với nồi hiện nay, dùng để nấu hầm và đựng cá thịt. Hứa Thận 许慎 trong Thuyết văn giải tự 说文解字 có nói:
Đỉnh, tam túc lưỡng nhĩ, hoà ngũ vị chi bảo khí dã.
鼎, 三足, 两耳, 和五味之宝器也
(Đỉnh là loại bảo khí có 3 chân, 2 quai, dùng để điều hoà ngũ vị)
          Có đỉnh tròn 3 chân, cũng có đỉnh vuông 4 chân. Đỉnh sớm nhất là loại đỉnh gốm bằng đất sét nung lên, về sau lại có đỉnh được chế tạo bằng đồng. Sau này lại có thêm truyền thuyết, nên địa vị của đỉnh càng được nâng cao.
          Truyền thuyết Hạ Vũ 夏禹 từng thu lấy kim loại ở chín châu đúc ra cửu đỉnh dưới Kinh sơn 荆山 để tượng trưng chín châu, đồng thời bên trên có chạm khắc đồ hình “si mị 魑魅, võng lượng 魍魉” (1) để mọi người cảnh giác, phòng ngừa bị tổn hại. Từ khi có truyền thuyết Hạ Vũ đúc cửu đỉnh, đỉnh từ một khí vật nấu thông thường phát triển thành trọng khí truyền quốc. Đất nước gặp tai hoạ thì phải dời đỉnh, triều Hạ diệt vong, triều Thương hưng khởi, cửu đỉnh dời đến kinh đô nhà Thương là Bạc kinh 亳京; triều Thương diệt vong, triều Chu hưng khởi, cửu đỉnh lại dời đến kinh đô nhà Chu là Hạo kinh 镐京. Từ triều Thương đến triều Chu, gọi định đô hoặc kiến lập vương triều xưng là “định đỉnh” 定鼎.

Vô tửu bất thành lễ
          Trung Quốc cổ đại có câu: “Vô tửu bất thành lễ” 无酒不成礼, rượu là thứ cần phải có trong các hoạt động tế thần tế tổ, lễ nghi qua lại, yến tiệc tân khách. Văn hoá này được kéo dài, bạn xem, hiện nay bạn bè tập trung, đồng sự tập hợp, gia đình bày tiệc, trên bàn nào mà thiếu rượu đâu? Nếu thiếu loại này chẳng phải nói là bạn hơi giận, mà là lễ nghi không chu đáo! Rượu đương nhiên đã quan trọng như thế, thì thanh đồng khí đựng rượu cũng đương nhiên thành lễ khí.
          Tổ hợp tửu khí giản đơn nhất là 1 tước 爵 1 cô 觚 dùng để châm và uống. Tước, có tên gọi tửu khí này do bởi tạo hình của nó giống con chim tước, phía trước có đường rãnh, giống mỏ chim, phía sau có đuôi, dưới bụng có chân nhỏ mà dài. Thời cổ, chữ 爵 và chữ 雀 đồng âm thông dụng, cho nên gọi là “tước” 爵.
          Tước 爵, giác 角, giả 斝 đều là vật dùng để uống, nhưng về hình dáng có sự khu biệt. “Giác” 角không có trụ, đuôi và rãnh đều có hình tam giác nhọn ở phần đầu. Dung lượng của “giả” 斝 tương đối lớn, có 2 trụ mà không có rãnh và đuôi. Cuối đời Thương đầu đời Chu, xuất hiện chí 觯, đa phần tổ hợp với tước để sử dụng. “Quang” 觥 cũng là loại dùng để uống, hình dạng có nắp, có rãnh, có núm, phần dưới của nó có dạng hình vuông hoặc có 4 chân. Còn như “bôi” 杯, “tôn” 樽 được dùng làm đồ để uống thì xuất hiện vào trung kì Chiến Quốc, đến đời Hán thì thịnh hành. Khí vật đựng rượu chủ yếu có tôn 尊, dữu 卣, phương di 方彝, bẫu 瓿, lôi 罍, hồ 壶 ... Tôn 尊 và dữu 卣 đa phần phối hợp thành bộ để sử dụng. Phương di 方彝 xuất hiện tương đối muộn, cũng phối hợp với tôn. Một tổ hợp tôn, dữu hoặc tôn, phương di vào thời cổ là tửu khí tôn quý, có người cho rằng, “tôn” 尊 trong tôn quý cũng từ đó mà ra. Sau thời Chiến Quốc, loại “viên hồ” 圆壶 bụng lớn có tên là “chung” 钟, cũng là một loại tửu khí. Đời Hán, “phương hồ” 方壶 có tên là “phương” 钫, thời Chiến Quốc “biên hồ” 扁壶có tên là “giáp” 钾. Một số tửu khí dùng để đựng có phụ thêm “chước” 勺 (cái gáo múc), chước có cán dài, phần đầu có hình cái “bôi” 杯. “Cấm” 禁 cũng có thể gọi là tửu khí, nó là một cái đài hình chữ nhật dùng để đựng tửu khí bên trên.

Thịt dùng đỉnh để đựng, những thực vật khác dùng thứ gì để đựng?
          Tửu có tửu khí, thực vật đương nhiên cũng có “thực khí” 食器 (vật dùng để đựng thức ăn). Vật bằng đồng dùng đựng thức ăn cũng là lễ khí, nhân vì vật  bằng đồng dùng đựng, nấu thức ăn khác nhau nên cũng đại biểu cho đẳng cấp khác nhau. “Thực khí” với ý nghĩa chân chính có quỹ 簋, phủ 簠, đôn 敦, đậu 豆. “Quỹ” là loại thường thấy nhất trong số thực khí, dùng đựng cơm gạo thử, gạo tắc. Bề ngoài quỹ rất đa dạng, phân ra loại có nắp, loại không có nắp, loại có quai, loại không có quai. Vãn kì đời Thương, thời Tây Chu, thời Xuân Thu là tương đối thịnh hành. Quỹ  đời Chu ở dưới chân cong đa phần phụ thêm đế vuông, đó là do người xưa trải chiếu mà ngồi, thực khí có đế để tiện việc lấy thức ăn. Quỹ có hình dáng rất lớn, như Lệ Vương quỹ 厉王簋đời Chu, cao 59cm, nặng 60 ngàn gram. Quỹ 簋 và đỉnh 鼎 phối hợp nhau, là số chẵn, như 8 quỹ, 6 quỹ, 4 quỹ, 2 quỹ, lần lượt đại biểu cho đẳng cấp quý tộc khác nhau. Trung và hậu kì thời Xuân Thu, xuất hiện loại “đôn” 敦, cũng dần lưu hành. Đôn thời Xuân Thu dáng tròn có nắp, đến thời Chiến Quốc, đôn diễn biến thành nắp và thân đồng hình, có dạng hình quả trứng, tục gọi là “tây qua đỉnh” 西瓜鼎. Đôn 敦 cùng với quỹ 簋, là tổ hợp số chẵn. Còn có một loại thực khí khác là “đậu” 豆. Đậu bằng đồng có loại bụng sâu, có loại như cái dĩa. Thời Chiến Quốc có loại đậu dáng vuông, gọi là “kĩ” 錡.  Loại đậu như cái dĩa gọi là “phô” 铺. Loại khí vật này dùng mãi đến đời Hán, hình dáng biến hoá không lớn lắm, nhưng chất liệu có khác nhau.
          Lễ nghi tế tự đầy tinh thần nhân văn mãi truyền lại. Tế tự ngày nay không giản đơn là tế quỷ thần, cũng không phải nhắm mắt sùng bái thần linh, mà là đào luyện tinh thần nhân văn. Ngoài ra, dưới tác dụng trong quan niệm “sự tử như sự sinh” 事死如事生 (thờ phụng người đã mất giống như thờ phụng lúc họ còn sống), tế tự đối với tổ tiên giống như đạo hiếu, trở thành căn bản của đạo đức.
                                                                                                (hết)

Chú của người dịch:
1- Theo “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu:
          Si mị 魑魅 là loài yêu quái ở gỗ, ở đá hoá ra.
Võng lượng 魍魉: giống yêu quái ở gỗ đá.

admin
Chia sẻ:
Ý kiến khách hàng